ma túy đá, meth.
- Một số thông tin về meth
- Trắc nghiệm về meth
- Lịch sử về meth
- Điều trị meth
- Có phải bạn đã nghiện ma túy đá?
- Tác hại của ma túy đá
- Dấu hiệu nhận biết sử dụng ma túy đá
- Ma túy đá và tự sát
- Ma túy đá và mất trí
- Báo động sử dụng cùng lúc nhiều loại chất gây nghiện
- Những ảnh hưởng xấu của ma túy đá
- Thuốc lắc
- Phòng chống tái nghiện
- Ma túy đá và sex
- Hỏi đáp về ma túy đá
- Điều trị nghiện rượu
- Điều trị nghiện heroin
- Ma túy đá và bạo lực
- Ma túy đá và ảo giác côn trùng bò dưới da
- Ma túy đá và bệnh tim mạch
- Ma túy đá và bệnh răng miệng
- Báo động tình trạng sản xuất ma túy đá
- Rối loạn tâm thần liên quan đến ma túy đá
- Nghiện là một bệnh của não
- Học cách chiến thắng bản thân
- Điều trị các bệnh lý CK tâm thần
- Điều trị nghiện thuốc lá
- Điều trị lạm dụng cần sa
LỊCH SỬ VỀ METHAMPHETAMINE
Amphetamine lần đầu tiên được tổng hợp ở Đức vào năm 1887. Chất kích thích nguồn gốc từ thực vật ephedra (ma huang) có chứa các alkaloid là ephedrine và pseudoephridrine đã được sử dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc hơn 5000 năm để điều trị bệnh hen suyễn và cảm lạnh thông thường.
Cho đến những năm 1920 sau khi thu hẹp nguồn ephedrine, amphetamine được sử dụng trên lâm sàng để điều trị hen phế quản. Dextroamphetamine và methamphetamine nhanh chóng được tổng hợp ngay sau đó. Năm 1932, thuốc thông mũi dạng xịt có chứa amphetamine đã bị lạm dụng và xuất hiện rộng rãi trên thị trường. Cục Quản lý thuốc và thực phẩm của Mỹ (FDA) đã cấm amphetamine dạng hít vào năm 1959. Các chất thuộc dạng amphetamine đã được sử dụng trong Thế chiến II và điều trị nhiều bệnh lý lâm sàng bao gồm cả chống sốc, trị quá liều thuốc an thần, viêm não, béo phì và hạ huyết áp tư thế. Hơn 10 tỷ viên thuốc chứa amphetamine đã được sản xuất hợp pháp vào năm 1970 nhưng phần lớn bị lạm dụng một cách bất hợp pháp.
Sau khi thông qua Đạo luật kiểm soát chất ma túy vào năm 1970 ở Mỹ, tỷ lệ lạm dụng amphetamine giảm xuống . Tuy nhiên, chiến dịch điều chế các chất dạng amphetamines lại bùng nổ vào những năm 1980, nổi bật là 3,4-methylenedioxymethamphetamine (MDMA) và 3,4-methylenedioxyethamphetamine. Tình trạng lạm dụng METH hồi sinh và METH được sản xuất theo công thức có độ tinh khiết cao được gọi là 'đá’. Năm 1990, sử dụng MDMA và methamphetamine tăng mạnh ở châu Âu, Bắc Mỹ và Úc. Tiếp theo là điều chế ngày càng nhiều các sản phẩm ATS với tính chất hóa học tương tự nhau, trong đó có 1-benzylpiperazine (BZP).
METHAMPHETAMINE ĐƯỢC TẠO RA DO METHYL HÓA AMPHETAMINE. Nghĩa là một nhóm methyl chức năng (-CH3) được gắn vào phân tử amphetamine để tạo thành methamphetamine (methyl + amphetamine). Khi vào cơ thể, methamphetamine phân hủy thành amphetamine. Sự khác biệt chính giữa methamphetamine và amphetamine là ở quá trình điều chế và tiềm năng kích thích thần kinh trung ương. METH có tác dụng dược lý mạnh hơn, kéo dài hơn và độc hại hơn so với amphetamine phần lớn do nhóm N-methyl (gọi tắt là "meth") trong công thức hóa học của methamphetamine làm giảm sự phân cực tế bào, cho phép dễ tan trong lipid hơn, dễ xuyên qua hàng rào máu não. Methamphetamine tan được trong nước, có thể sử dụng đường hút, hít - đặc biệt là ở dạng tinh thể có thể dùng đường tiêm, và hấp thụ vào cơ thể nhanh hơn so với amphetamine không methyl hóa, và cũng do vậy mà cho tác dụng mạnh hơn. Hơn nữa, methamphetamine ổn định hơn amphetamine vì khả năng chống suy thoái enzyme monoamine oxidase tốt hơn (tức là các chất phá vỡ amphetamine và methamphetamine sẽ khó khăn hơn trong việc phá vỡ methamphetamine) vì vậy methamphetamine hoạt động lâu hơn. METH cũng gián tiếp ức chế tái hấp thu các chất dẫn truyền thần kinh, làm cho chất dẫn truyền thần kinh tồn tại lâu hơn tại khe synap (Scott và CS, 2007).
Amphetamine-Công thức: C9H15N Methamphetamine-Công thức: C10H15N
Hình 3: Công thức hóa học của amphetamine và methamphetamine
Ngoài ra, so với amphetamine, METH kích thích mạnh hệ thống thần kinh trung ương, trong khi kích thích rất kém đối với hệ thần kinh và tim mạch ngoại vi. Một sự khác biệt nữa là amphetamine gián tiếp kích thích hệ thần kinh trung ương bằng cách kích hoạt phát hành các catecholamine, đồng thời ức chế tái hấp thu và tăng lưu trữ catecholamine tại màng synap trước. Ngược lại, METH trực tiếp kích thích các thụ thể catecholamine ở màng sau synap.
Cả amphetamine và methamphetamine đều có hai đồng phân, levorotary và dextrorotatory. Amphetamine là levoamphetamine (l-amphetamine) thực sự và đó cũng là dextroamphetamine (d-amphetamine). L-amphetamine rất yếu, nó có tác động rất ít lên hệ thần kinh trung ương (CNS) và khả năng gây nghiện yếu. Tuy nhiên dextroamphetamine lại mạnh hơn amphetamine gấp nhiều lần . Thực tế khi người ta thường nói về ảnh hưởng "tốc độ" (speed) của amphetamine chủ yếu là về dextroamphetamine. Sự khác biệt giữa levo (trái) và dexto (bên phải) được minh họa giống như 2 bàn tay của một người, tuy là 2 chất tương tự, nhưng sức mạnh lại khác nhau. Tuy nhiên, l- methamphetamine không hề có tính chất kích thích tâm thần, hoặc gây nghiện. Trong thực tế levomethamphetamine được bán tại các quầy trong ống thuốc Vicks Vapor. Nhà sản xuất thay đổi chút ít tên biệt dươc levmetamfetamine để tránh sự kỳ thị. Dextroamphetamine gây nghiện mạnh, khi nói về ảnh hưởng của METH trên thị trường nói chung, thực ra là những ảnh hưởng của dextroamphetamine.
METH có thể được dùng theo đường tiêm, hít, hút, hoặc nuốt. Tính chất gây nghiện của meth là do sự phóng thích nhanh gần như ngay lập tức chất dopamine tại não. Dopamine là một chất trung gian hóa học tạo ra các cảm giác sảng khoái. Newsweek, tháng 8 năm 2005, đã mô tả METH hấp dẫn người sử dụng "với cuộc chạy đua đầy sức mạnh tự tin, tăng sự thức tỉnh, và khoái cảm kéo dài nhiều giờ”. Nghiên cứu cho thấy lượng dopamine được phóng thích do sử dụng METH nhiều gấp 3 lần so với cocaine và gấp 4 lần so với morphine.
METH tác động lên não bằng cách làm tăng nồng độ các catecholamine (ephinephrine, norepinephrine, dopamine) và serotonin. Sự gia tăng này thông qua ba cơ chế: (1) giải phóng chất dẫn truyền thần kinh, (2) ngăn chặn tái hấp thu và (3) làm chậm sự chuyển hóa. Không chỉ ngăn chặn tái hấp thu dopamine, mà còn làm đảo ngược các hoạt động của chất dẫn truyền thần kinh dopamine (DAT), bơm chất dẫn truyền thần kinh ra khỏi sợi trục tế bào thần kinh mạnh hơn là tái hấp thu dopamine và dự trữ tại các túi tiếp hợp, làm ngừng hoạt động của dopamine tại các điểm tiếp nhận. Hiệu ứng cấp tính của METH là một tình trạng quá dư thừa catecholamine và serotonin, dẫn đến cảm giác kích thích và sảng khoái cao độ, làm tăng sự tỉnh táo, tăng tập trung chú ý , tăng động lực, tăng khí sắc, tăng năng lượng và giảm sự thèm ăn. Tác dụng tức thời của METH là tăng khả năng nhận thức. Các rối loạn tâm thần tức thời có thể bao gồm lo lắng, bồn chồn và mất ngủ. Chỉ trong vài ngày tiếp xúc với METH, thay đổi sinh hóa não do sử dụng mãn tính bắt đầu xuất hiện (ví dụ, giảm chất dẫn truyền thần kinh dopamine và gia tăng các dấu hiệu tiêu hủy hệ dopaminergic ở đầu cuối sợi trục).
Sử dụng METH mãn tính là một cách tạo ra một trạng thái cạn kiệt nhanh chóng catecholamine và serotonin, gây mệt mỏi, trầm cảm, hôn mê và mất khoái cảm (anhedonia). Sử dụng METH mãn tính làm phá vỡ trầm trọng tính toàn vẹn của hệ thống thần kinh trung ương, tế bào thần kinh và hệ thống dẫn truyền thần kinh. Cạn kiệt serotonin, dopamine kéo dài đến bốn năm trong nghiên cứu ở loài linh trưởng, và giảm vận chuyển dopamine tại nhân đuôi trong nghiên cứu ở người (thấp hơn 20%), tại nhân accumbens (29,6%), và tại vỏ não trước trán (thấp hơn 33%) góp phần làm mất khoái cảm (anhedonia), giảm động cơ hoạt động và suy giảm nhận thức. Sự giảm chất dẫn truyền thần kinh dopamine liên quan trực tiếp đến sử dụng METH kéo dài. Tổn thương tế bào thần kinh chủ yếu do phá hủy dopamine ở đầu cuối sợi trục chứ không phải là phá hủy tế bào. Cơ chế của sự mất dopamine dường như do sự tái phân phối dopamine của METH từ môi trường nghèo synap vào môi trường oxy hóa tế bào chất của tế bào, tiếp tục sản sinh các gốc tự do và chất chuyển hóa phản ứng khác làm thiệt hại protein và màng tế bào.
METH làm thay đổi sinh hóa và cấu trúc não gây suy giảm chức năng nhận thức. Suy giảm nhận thức bao gồm suy giảm trí nhớ lời nói và trí nhớ hình ảnh, chức năng vận động, sự chú ý và chức năng điều hành đòi hỏi trừu tượng, thiết lập sự di chuyển và ức chế. Suy giảm nhận thức có xu hướng xấu đi ở giai đoạn đầu kiêng cữ với meth (5-14 ngày). Những thiếu sót trong sự chú ý chọn lọc đã được chứng minh là có cải thiện ở 2 tháng kiêng cữ, và việc cải thiện trí nhớ lời nói cần 3-14 tháng kiêng cữ. Sử dụng MA kéo dài tạo nên nguy cơ trầm cảm, mất khoái cảm, lo âu, hoang tưởng, ảo thanh và ảo thị.
METH thường sử dụng theo hình thức nuốt hoặc hít. METH dạng tinh thể trông giống như thủy tinh thường được gọi là "đá” và sử dụng theo cách hút. Khi hút hoặc tiêm, đá nhanh chóng tác dụng lên não và có nguy cơ gây nghiện cao. Ngày càng có nhiều bằng chứng hút METH dạng tinh thể có tác hại tâm lý và tiềm năng gây nghiện cao hơn các hình thức khác của METH. Ngoài ra, METH đôi khi được pha trộn với các loại ma túy khác và bán với tên gọi "thuốc lắc" (3,4) (methylenedioxymethamphetamine - MDMA), một loại ma túy với tính chất gây ảo giác thường được sử dụng tại các câu lạc bộ và các tụ điểm vui chơi giải trí.
Độ tinh khiết của METH thay đổi đáng kể: từ 3% đến 79%. METH thường bị pha tạp các loại chất khác bao gồm caffeine, glucose và các loại đường khác, và đôi khi có cả ephedrine hoặc ketamine. Phân tích mẫu METH tại Việt nam có chứa khoảng 5 đến 20% methamphetamine và một số lượng không xác định caffeine và thường chứa các chất khác như ketamine. METH dạng tinh thể ở Việt Nam thường chứa 45 đến 72% METH. METH cũng được trá hình trong viên MDMA (ecstasy, thuốc lắc). Cả METH và MDMA đều phổ biến trong nhóm dân số đặc biệt (mại dâm nam, nam tình dục đồng giới, người nghiện heroin)./.
LIÊN HỆ BS THU 0988079038 ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TỐT NHẤT VỀ METH VÀ CÁC RỐI LOẠN LIÊN QUAN ĐẾN METH
Trực tiếp tư vấn và điều trị nghiện rượu, nghiện heroin, trầm cảm, lo âu, rối loạn tâm thần nội sinh hoặc do sử dụng rượu, cần sa, cỏ Mỹ, ma túy đá (nghiện đá, ngáo đá), thuốc lắc, ketamin. Tiến sĩ, Bác sĩ Trần thị Hồng Thu, hiện đang công tác tại Bệnh viện Tâm thần ban ngày Mai Hương - Điện thoại, Zalo, Facebook 0988 079 038
Thông tin liên quan
- Triệu chứng côn trùng bò dưới da ở người đập đá
- Có nên tự cai nghiện một mình?
- Tại sao chúng ta cần trợ giúp chuyên khoa và thuốc theo đơn
- Đồng tính
- Tại sao sức khỏe tinh thần lại quan trọng?
- Đừng để người bệnh tâm thần mãi cô đơn
- Quản lý tức giận ở trẻ ADHD
- Đừng nhầm các triệu chứng tăng động giảm chú ý (ADHD) là hành vi xấu
- Chiến lược giúp cho cha mẹ ngưng chì trích trẻ tăng động giảm chú ý
- Nhiều bệnh tâm thần dễ nhầm với bệnh khác